Trao đổi với phóng viên báo Kinh tế & Đô thị, PGS.TS Nguyễn Thị Mùi - Chuyên gia tài chính ngân hàng đưa ra nhận định: Từ trước đến nay chỉ có các DN lớn mới có thể tiếp cận được các gói vay tín chấp của các NH thương mại, tuy nhiên hiện đang có sự dịch chuyển sang các DNNVV. Điều đó cũng chính là động thái, góp phần hoàn thành mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2017.
Tạo niềm tin giữa hai bênVậy, bà đánh giá như thế nào về sự dịch chuyển này?- Việc cho vay có tài sản đảm bảo hay không có tài sản đảm bảo đã được quy định bằng các văn bản từ trước đến nay rồi. Trước đây, NH chủ yếu cho các DN lớn vay, bởi các DN này có một lịch sử hình thành khá lâu và tạo được uy tín đối với NH trong việc vay vốn, trả nợ và sử dụng các dịch vụ NH. Do đó, các DN trước đây thường vay tín chấp, tức là vay không có tài sản đảm bảo mà dựa vào uy tín và vị thế của DN.
Theo tôi, khó khăn của DNNVV hiện nay đó là tài sản đảm bảo quyền vay, nhưng khắc phục được vấn đề dòng tiền vào thì DN sẽ tiếp cận được vốn của các NH thương mại. Khi đó, DN và NH dần dần có được điểm tiếp cận chung, chứ không phải đi trên hai đường thẳng, khi cần thiết vốn thì có thể đến NH và ngân hàng có thể đáp ứng vốn cho DN có điều kiện sản xuất kinh doanh.
Thực tế, tính minh bạch dòng tiền của các DNNVV Việt Nam thường không tốt, việc mở rộng cho vay tín chấp như vậy liệu NH có quá rủi ro không, thưa bà?- Một khi cho vay tín chấp ở một chừng mực nhất định thì NH sẽ phải xem xét một cách thận trọng, đến hạn mà DN không trả được nợ thì tài sản đảm bảo là nguồn thu nợ thứ hai. Khi đã sử dụng đến nguồn thu nợ thứ hai để thu nợ thì quan hệ giữa DN và NH sẽ không còn gì. Đối với các NH thì đây là những trường hợp chẳng đừng, bởi phải xem xét một cách thấu đáo hơn hiệu quả kinh doanh của chính DN đó.
Để xác định được vấn đề này trong khi tính minh bạch của DN còn hạn chế, tôi cho rằng DN cần phải nhận thức rõ vấn đề minh bạch trong hoạt động, nhất là minh bạch trong hoạt động tài chính kế toán. Việc của DN là làm thế nào để NH nhận thức rõ được vấn đề này và tạo niềm tin giữa hai bên. Khi đã xây dựng niềm tin, uy tín với NH, việc cho vay tín chấp sẽ trở thành hiện thực, chứ không phải đôi khi DN nói vay tín chấp còn xa vời. Tôi cho là trong bối cảnh hiện nay, NH rất cần thiết cho DN vay và DN rất cần vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, nhưng chỉ DN tạo được lòng tin với ngân hàng thì việc vay tín chấp mới trở thành hiện thực.
Về phía NH, một khi chấp nhận cho DN vay tín chấp sẽ phải tăng cường quản lý rủi ro bằng cách theo dõi sát sao hơn hoạt động của DN. Khi DN gặp khó khăn sẽ có biện pháp cùng tháo gỡ để các dòng tiền đi đúng hướng và đạt hiệu quả cao, để đến hạn NH có thể thu được cả lãi và gốc.
Mục tiêu có thể đạtChính phủ đặt mục tiêu tăng trưởng tín dụng năm 2017 cố gắng đạt hơn 20%, theo bà để hoàn thành kế hoạch này cần có giải pháp gì?- Theo tôi được biết, tăng trưởng tín dụng của hệ thống NH Việt Nam đã cao hơn cùng kỳ năm trước với một tỷ lệ rất tích cực. Vấn đề đặt ra từ nay đến cuối năm, tăng trưởng GDP đạt trên 7%, cả năm tăng trưởng GDP dự kiến đạt 6,7%. Ở một chừng mực nào đó, không phải tăng trưởng chỉ dựa vào vốn, nhưng cũng phải khẳng định một điều, không có vốn thì không hỗ trợ tăng trưởng được.
Vừa qua, Chính phủ đặt ra mục tiêu tăng trưởng tín dụng là 21 - 22% thay vì mục tiêu 18 - 19% đặt ra trước đó, tôi cho rằng với mức tăng trưởng như hiện nay con số này cũng rất dễ đạt được. Bởi bản thân ngành NH cũng rất muốn tăng trưởng, chỉ có điều tăng trưởng tín dụng phải đi đôi với chất lượng tăng trưởng, chỉ khi có tăng trưởng tín dụng thì ngành NH mới có điều kiện thu lợi nhuận. Cho đến nay, các NH lợi nhuận tạo ra cũng 80 - 90% từ hoạt động tín dụng. Việc nới chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng lên 21 - 22%, các NH hoàn toàn có thể làm được. Vấn đề đặt ra ở đây là tăng trưởng vào đâu, tăng trưởng như thế nào để hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế, cũng chính là hỗ trợ cho DN trong vấn đề sản xuất kinh doanh, tăng trưởng xã hội để cùng tạo động lực cho thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Mấy tháng đầu năm, tăng trưởng tín dụng khá cao, trong khi tăng trưởng kinh tế lại thấp, theo bà đây có phải là nghịch lý và điều đó có gây ra những rủi ro gì không?- Về vấn đề này, hiện cũng có khá nhiều công trình nghiên cứu về tăng trưởng tín dụng cao nhưng tăng trưởng kinh tế thấp, cũng tương tự như vậy DN thành lập rất nhiều nhưng đóng góp của cộng đồng DN chưa đạt được như mong muốn, tôi cho rằng vấn đề này cần được xem xét ở nhiều khía cạnh. Đôi khi, độ trễ của chính sách không phải cứ đưa vốn vào nền kinh tế sẽ đem lại hiệu quả ngay tức thì. Bởi, những trường hợp có độ chễ ít thì một vài tháng, nhiều thì 2 - 3 quý, thậm chí có những cơ chế chính sách có độ chễ hàng năm. Tuy nhiên, tôi tin rằng với tốc độ tăng trưởng tín dụng như 8 tháng qua, trong quý IV/2017 này được đẩy nhanh lên một chút, với những hiệu ứng tích cực mang lại sẽ dễ dàng đạt được những kết quả như mong muốn.
Phải nói thêm một chút, tăng trưởng tín dụng hỗ trợ và đóng góp cho tăng trưởng kinh tế, nhưng không phải cứ tăng trưởng tín dụng lên 1% thì tăng trưởng kinh tế cũng tăng trưởng lên như vậy mà nó còn phụ thuộc vào rất nhiều vấn đề.
Xin cảm ơn bà!