Sứ mệnh công nghệ cao trong kỷ nguyên vươn mình
Kinhtedothi - Trong kỷ nguyên vươn mình của đất nước, công nghệ cao cần có sứ mệnh đi đầu để thay đổi mô hình tăng trưởng, tăng năng suất lao động, khẳng đinh vị trí và vai trò không thể thay đế trong mô hình tăng trưởng theo chiều sâu, sức lan tỏa lớn và chuyển đất nước sang giai đoạn công nghiệp hóa cao, hướng tới nước công nghiệp để có thể gia nhập vào nhóm các nước công nghiệp phát triển nhất năm 2045.
Quyết định tăng trưởng chiều sâu
Từ năm 2025, Việt Nam bước vào kỷ nguyên vươn mình để chuyển mạnh sang giai đoạn trở thành nước thu nhập trung bình cao năm 2030 và nước công nghiệp có thu nhập cao năm 2045. Đây là thời điểm Việt Nam có khả năng rất cao trở thành nước phát triển cao và là thành viên Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD). Thực chất, đây là quá trình chuyển dịch cơ bản cơ cấu kinh tế từ mô hình dựa vào nguồn lực hay hiệu quả sang mô hình tăng trưởng dựa vào đổi mới sáng tạo. Trong kỷ nguyên phát triển này, có thể có những bước phát triển khác biệt hơn so với 40 năm trước đó trong đó có sứ mệnh của công nghệ cao là tạo ra mô hình phát triển vươn mình của toàn bộ nền kinh tế với khả năng mở rộng quy mô lớn nhất, tốc độ nhanh nhất, và tích hợp tối ưu nguồn lực phát triển tiên tiến và tinh hoa.
Là ngành có hàm lượng cao về nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, được tích hợp từ thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại; tạo ra sản phẩm có chất lượng, tính năng vượt trội, giá trị gia tăng cao, thân thiện với môi trường; có vai trò quan trọng đối với việc hình thành ngành sản xuất, dịch vụ mới hoặc hiện đại hóa ngành sản xuất, dịch vụ hiện có (Điều 1, Luật Công nghệ cao). Công nghệ cao là yếu tố làm thay đổi cơ bản năng suất lao động, đổi mới sản phẩm và tạo giá trị lớn hơn so với công nghệ thông thương. Các mô hình tăng trưởng truyền thống hầu như chưa tính đến đầy đủ yếu tố công nghệ nhất là công nghệ cao mặc dù các nghiên cứu lý thuyết và thực tế đều chỉ ra đầu tư vào ứng dụng và phát triển công nghệ cao đều tạo ra được sự phát triển đột phá. Công nghệ cao sẽ chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng năng suất, cải thiện thứ hạng vị thế kinh tế, tăng trưởng cao, năng lực cạnh tranh cao và đặc biệt là vượt qưa được “trần thủy tinh” ngăn cản các quốc gia vượt qua bẫy thu nhập trung bình (Ohno, 2022). Trong giai đoạn 2025-2030, Việt Nam bước vào kỳ nguyên vươn mình (Tổ bí thư Tô Lâm, 2024), tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm có thể đạt khá cao 7,09% năm 2024, 8,5-9,5% năm 2025 và đạt tăng trưởng 2 con số từ năm 2026.
Để đạt được tốc độ tăng trưởng chưa từng có này, bên cạnh việc tích lũy đáng kể nguồn lực phát triển trong 40 năm đổi mới liên tục và quyết liệt, tạo lập được những nền tảng phát triển quan trọng, cần đổi mới thực chất mô hình tăng trưởng, trong đó phải lấy công nghệ cao làm nòng cốt và yếu tố cốt lõi (Thủ tướng Chính phủ, 2021). Các loại công nghệ được ưu tiên là công nghệ vật liệu bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, chuỗi khối, tự động hóa, dữ liệu, công nghệ sinh học, công nghệ vũ trụ. Thực tế các mô hình tăng trưởng thành công, chuyển từ quốc gia thu nhập trung bình lên quốc gia có thu nhập cao để trở thành nước công nghiệp mới trong giai đoạn ngắn đều dựa vào công nghệ cao như Hàn Quốc, Sinapore và vùng lãnh thổ Đài Loan (Nguyễn Thường Lạng, 2021). Các quốc gia và vùng lãnh thổ này đều cố gắng làm chủ và phát huy triệt để công nghệ cao, công nghệ lõi để tạo được giá trị gia tăng cao nhất nhằm gia tăng liên tục tiềm năng tăng giá trị của nền kinh tế.
Đổi mới sáng tạo là ưu tiên hàng đầu
Theo bảng xấp hàng chỉ số đổi mới sáng tạo (GII) hàng năm của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO), có thể nhận thấy, các quốc gia đều coi trọng đổi mới sáng tạo. Hầu như các quốc gia đều coi đổi mới sáng tạo là phương tiên duy nhất và hiệu quả nhất để cải thiện vị thế quốc gia. Tất cả các nguồn lực trình độ cao hay cụ thể hơn là nguồn lực tinh hoa đều tập trung vào việc cải thiện chỉ dố đổi mới sáng tạo này.
Theo quan sát của tác giả, trong vòng 10 năm, nếu một quốc gia nhảy được 30 - 40 bậc trong xếp hạng chí số đổi mới sáng tạo liên tiếp là quốc gia đã tạo được sự thần ký trong điều chỉnh cơ cấu kinh tế và đó là nền tảng để đổi mới cơ cấu kinh tế hiệu quả và đây cũng là kết quả của đổi mới sáng tạo liên tục. Theo số liệu ở Hình 2, trong 14 năm liên tiếp (2011-2024), các nước như Singapore, Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản, Úc, Malaysia, Thái Lan, Philippin và Việt Nam đều có sự cải thiện đáng kể chỉ số này. Từ vị thế xếp hạng 76 năm 2013 đến 44 năm 2024 nghĩa là trong vòng 12 năm, Việt Nam nhảy được 32 bậc. Điều này cho thấy cấc nỗ lực tạo lập mô hình tăng trưởng dựa vào đổi mới sáng tạo được Việt Nam tích lũy hiệu quả. Đến năm 2024, tăng trưởng kinh tế Việt Nam đặt con số trên 7% cao hơn mức cao nhất được Quốc hội đề ra là 6,5%. Tổng kim ngạch xuất - nhập khẩu có thể đạt con số 800 tỷ đô- la Mỹ, tăng cao hơn so với con số đặt ra trong Chiến lược xuất- nhập khẩu hàng hóa đến năm 2030.
Việt Nam đang bước vào giai đoạn tăng trưởng cao và đổi mới sáng tạo quyết liệt. Đây là dấu hiệu cho thấy Việt Nam đang chuyển dần vào quỹ đạo vươn mình mạnh mẽ để thay đổi cơ bản trình độ, trạng thái và chất lượng của sự phát triển. Đây là bằng chứng cho thấy hàng loạt chính sách phát triển của Việt Nam trong đó có các đạo luật liên quan đến thúc đẩy đổi mới sáng tạo thành công ngoài mong đợi.
Chi nghiên cứu và phát triển của Việt Nam cần gia tăng
Một trong những điều kiện đặc biệt quan trọng để thúc đẩy đổi mới sáng tạo liên tục nhằm tạo chỗ dựa đế đổi mới vững chắc mô hình tăng trưởng, giải phóng tiềm năng phát triển, phát huy cao nhất yếu tố tăng trưởng theo chiều sâu là cần gia tăng chi nghiên cứu và phát triển (R&D). Hầu như có sự chạy đua quyết liệt giữa các quốc gia trong việc sử dụng R&D để đạt được đỉnh cao về công nghệ cao nhằm tạo lợi thế cạnh tranh công nghệ, thương mại hóa và tạo lợi thế từ độc quyền công nghệ cao. Nói cách khác, công nghệ cao trở thành mục tiêu cần được làm chủ và đây cũng là dấu hiệu cho thấy sứ mệnh đặc biệt quan trọng của công nghệ cao trong quyết định vị thế chiến lược cửa các quốc gia. Thực tế cho thấy, trong cả giai đoạn 2013-2023, chi R&D của Việt Nam còn khá khiêm tốn, chỉ từ 0,3 đến hơn 0,5% GDP. Con cố này về tuyệt đối tăng lên đáng kể song so với các nước có tiềm lực đổi mới sáng tạo hàng đầu thế giới còn số này thấp hơn 4-8 lần (Hình 3). Theo số liệu ở Hình 3, Hàn Quốc là quốc gia có tỷ lệ này cao nhất khoảng 5% GDP các các nước còn lại như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc (trừ Hồng Công), EU đều thấp từ 3-4%.
Đây là số liệu cho thấy tiềm năng phát triển công nghệ cao của Việt Nam còn rất lớn nếu tăng chi R&D đáng kể và sử dụng hiệu quả. Trạng thái phát triển công nghệ cao sẽ được thay đổi đáng kể khi đẩy mạnh khai thác nguồn đầu tư này cả từ tư nhân và nhà nước. Thực tế, các doanh nghiệp đã coi trọng nhiều hơn đến chi R&D và tạo được sự phát triển đột phá như nghiên cứu đưa ra giống gạo ngon nhất thế giới ST 25 nawem 2019 và 2022. Việc kết nối tích cực, chủ động với tập đoàn công nghệ cao như NVIDIA để thành lập trung tâm nghiên cứu chất bán dẫn tại Việt Nam năm 2024 cho thấy việc đổi mới sáng tạo đang đi vào thực tế và thực chất tại Việt Nam với sự vào cuộc của hệ thống chính trị.
Đi đầu, thay đổi mô hình tăng trưởng theo chiều sâu
GS.TSKH Nguyễn Đình Đức chỉ ra, bài học của các nước như Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Trung Quốc và nhiều quốc gia phát triển khác đã cho thấy công nghệ cao là chìa khóa để quốc gia hưng thịnh và giàu mạnh. Việt Nam cũng không còn con đường nào khác. Chưa bao giờ những thành tựu khoa học công nghệ của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, trí tuệ nhân tạo tác động đến mọi hoạt động của đời sống xã hội và toàn cầu nhanh, mạnh mẽ như hiện nay.
Vì vậy, trong kỷ nguyên vươn mình của đất nước, công nghệ cao cần có sứ mệnh đi đầu để thay đổi mô hình tăng trường, tăng năng suất lao động, khẳng đinh vị trí và vai trò không thể thay đế trong mô hình tăng trưởng theo chiều sâu, sức lan tỏa lớn và chuyển đất nước sang giai đoạn công nghiệp hóa cao, hướng tới nước công nghiệp để có thể gia nhập vào nhóm các nước công nghiệp phát triển nhất năm 2045.
Theo GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, để đạt được sứ mệnh đó của công nghệ cao ở Việt Nam cần có các giải pháp nhất định. Trước hết, cần nhận thức đầy đủ hơn vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng và thậm chí quyết định công nghệ cao trong việc cải thiện vị thế quốc gia trong dài hạn và bối cảnh phát triển mới. Cần đẩy mạnh công tác truyền thông hiệu quả về công nghệ cao để huy động lớn nhất mối quan tâm và nỗ lực liên tục phát triển tất cả các hướng công nghệ cao.
Thứ hai, cần có hệ sinh thái phát triển công nghệ cao trên cơ sở Đề án và Luật Công nghệ cao cũng như các quy định khác có liên quan. Đầu tư nhiều hơn và công nghệ cao và có cơ chế ưu đãi, khuyến khích hiệu quả công nghệ cao. Phát triển thị trường công nghệ cao gắn với mô hình hợp tác đầu tư phát triển công nghệ cao hoặc liên doanh quốc tế phù hợp.
Thứ ba, coi trọng phát triển đội ngũ nhân lực nghiên cứu và phát triển công nghệ cao, coi trọng các trung tâm công nghệ cao, trung tâm đổi mới sáng tạo và xây dựng chuỗi sản phẩm công nghệ cao, kết nối trung tâm công nghệ cao trong nước và quốc tế và có giải pháp rút ngắn khoảng cách phát triển, thâm chí sáng tạo mô hình phát triển mới hiệu quả và bắt kịp xu hướng thế giới.
Thứ tư, các doanh nghiệp, tập đoàn công nghệ cao cần có chiến lược đầu tư làm chủ và phát triển công nghệ cao quyết liệt. Cần có chính sách doanh nghiệp phát triển công nghệ này hiệu quả và quyết liệt. Cần coi trọng thúc đẩy khởi nghiệp đổi mới sáng tạo để đạt đỉnh cao của công nghệ trong giai đoạn phát triển mới. Tích cực chủ động học hỏi kinh nghiệm và thực tiễn tốt để áp dụng thích hợp vào từng lình vực công nghệ cao phù hợp.
Mô hình tăng trưởng theo chiều sâu là phương tiện để tạo đà vươn mình đất nước giai đoạn mới. Công nghệ cao là côt lõi của mô hình tăng trưởng mới. Cả lý thuyết và thực tế đều cho thấy Việt Nam có điều kiện để phát triển công nghệ cao phục vụ giai đoạn chuyển mình hiệu quả. Trong giai đoạn vươn mình, tăng trưởng có thể đạt 2 con số từ năm 2026, chỉ số đổi mới sáng tạo được cải thiện, chi phí R&D còn khiêm tốn. Việt Nam đang kết nối với các tập đoàn công nghệ hàng đầu để vướn mình tới công nghệ cao. Điều đó cho thấy việc phát triển công nghệ cao được coi trọng gắn với đổi mới sáng tạo. Các giải pháp cần đồng bộ cả nhà nước và doanh nghiệp để công nghệ cao phát huy sứ mệnh giai đoạn vươn mình của đất nước.
Tin tức mới nhất trên báo in Kinh tế & Đô thị ngày hôm nay 15/1/2025
Kinhtedothi - Thực hiện nghiêm quy hoạch, Hà Nội sẽ có bước đột phá; Tạo chuyển biến hơn nữa trong công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực... là những tin tức tổng hợp hấp dẫn nhất trên báo in Kinh tế & Đô thị phát hành ngày 15/1/2025.
Ban Dân tộc TP Hồ Chí Minh: mang Tết đến với đồng bào dân tộc thiểu số
Kinhtedothi – Thực hiện công tác chăm lo đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống trên địa bàn, Ban Dân tộc TP Hồ Chí Minh tổ chức trao 300 suất quà Tết Nguyên đán Ất Tỵ 2025 cho hộ dân khó khăn; trao học bổng cho học sinh nghèo, tặng quà cho gia đình thuộc căn cứ Ban Hoa vận.
Hà Nội phấn đấu đến năm 2030, có 3 làng nghề gắn với du lịch
Phó Chủ tịch UBND TP Hà Nội Nguyễn Mạnh Quyền vừa ký ban hành Quyết định số 282/QĐ-UBND về việc phê duyệt “Đề án tổng thể phát triển làng nghề trên địa bàn TP Hà Nội giai đoạn 2025 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050”.